Các phương tiện truyền
thông xã hội là công cụ, ứng dụng giao tiếp đại chúng dựa vào không gian
trực tuyến trên nền tảng in-tơ-nét và các công nghệ truyền thông hiện đại
khác nhằm chuyển tải thông tin, kết nối mọi người với tốc độ truyền dẫn,
lan tỏa nhanh chóng trên diện rộng cùng tính tương tác cao, hình thành nên
các mối quan hệ xã hội, cộng đồng tương tác xã hội đa dạng, có tác động sâu
rộng vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đời sống cá nhân của người dùng.
Hiện
nay, các phương tiện truyền thông xã hội rất đa dạng, bao gồm nhiều loại hình,
tính năng ứng dụng. Có thể kể đến như Mạng xã hội gồm
Facebook, MySpace, Google+, Zing.Me...; hay các trang chia sẻ link và tin tức xã hội như: Delicious,
Digg, Reddit, Loantin...; các trang chia sẻ hình ảnh,
video: YouTube, Instagram, Flickr,
Clip.vn...; các tiểu blog hay blog vi mô như:
Twitter, Friendfeed, Tumblr, Me2day...; rồi đến các diễn đàn như: Sitepoint.com, startups.co.uk,
webtretho, Otofun...; các dịch vụ thoại, nhắn tin trên
nền in-tơ-né tnhư: Viber, Zalo, WeChat, Facebook Messenger...; và
cuối cùng là các phương tiện tìm kiếm xã hội và tìm kiếm tri
thức; các trang thực tế ảo và trò chơi tương
tác cộng đồng; các mạng xã hội âm nhạc.v.v...
Trong tất cả các phương tiên kể trên thì mạng xã hội là phổ biến nhất.
Không thể phủ nhận, các phương tiện truyền thông xã
hội là một thành tựu vĩ đại của nhân loại, mang đến nguồn tài nguyên thông tin
- tri thức vô hạn, những tiện ích trong kết nối - giao tiếp xã hội chưa bao giờ
có trước đây. Nếu được sử dụng vào những mục đích tích cực, thì chúng sẽ tạo
nên những giá trị vô cùng to lớn. Tuy nhiên, với sự tham gia đa dạng của người
dùng, trong môi trường khó kiểm soát, các phương tiện này cũng là “con dao hai lưỡi”, khi những tác động nghịch
rất dễ xảy ra, tạo nên nhiều hệ lụy tiêu cực tới đời sống chính trị - xã hội,
thậm chí khôn lường, nhất là với một quốc gia có số lượng người
dùng in-tơ-nét gắn với các phương tiện truyền thông xã hội cao hàng
đầu thế giới như nước ta, (tính đến nay, Việt Nam có gần 70 triệu
người sử dụng in-tơ-nét, đứng thứ 12 trên thế giới). Và dĩ nhiên, mạng xã hội cũng là
“mảnh đất màu mỡ” để các thế lực phản động ngụy biện, tuyên truyền nhằm chống
phá, tạo bất đồng, xung đột về tư tưởng trong nội bộ, trong xã hội và nhân dân,
từ đó kích động biểu tình, chống đối, bạo loạn, khủng bố,... nhằm đạt
mục đích chính trị của chúng. Có thể nói, không gian mạng hiện nay đang ngày càng trở thành mặt
trận chính trong cuộc đấu tranh ý thức hệ.
Trong “ván bài chính
trị” chống phá ta, các thế lực thù địch sử dụng các phương tiện
truyền thông xã hội như một “con át chủ bài” và thông qua đó, chúng
xảo quyệt tập trung ngụy biện, tuyên truyền về tham
nhũng, vốn là vấn đề xã hội hết sức nhức nhối; vấn đề
nhạy cảm gắn liền với sự tha hóa về quyền lực chính trị, từ đó
dễ dàng bôi đen, thổi phồng các khuyết điểm, xuyên tạc về Đảng, Nhà nước
ta, âm mưu chuyển hóa từ tuyên truyền về chống tham nhũng sang kích động chống
phá về chính trị. Chúng không từ bất cứ thủ đoạn nào để tung hỏa mù,
bủa vây không gian mạng hòng gây nhiễu thông tin bằng những màn lừa
bịp tráo trở, biến hóa khó lường, song tập trung nhất vẫn là xuyên tạc,
khoét sâu vào một số nội dung chủ
yếu sau:
Một là, trên không gian
mạng, các thế lực thù địch xảo biện và quy chụp tham nhũng chỉ tồn tại và “nở
rộ” ở chế độ một đảng cầm quyền như tại Việt Nam. Chúng cho rằng, đây là vấn
đề thuộc về “bản chất thể chế”, không thể thay đổi được hoặc dù tham
nhũng có ở các thể chế chính trị khác, nhưng nghiêm trọng hơn ở chế độ một
đảng. Rằng, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiệu quả
thấp do thiếu vắng sự kiềm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực như cơ chế
“tam quyền phân lập” (?!).
Chúng ta phải thừa nhận
rằng: tham nhũng là khuyết tật “bẩm
sinh” của quyền lực, một hiện tượng xã hội gắn liền với sự xuất hiện
chế độ tư hữu, sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của
nhà nước. Nó là căn bệnh đồng hành và tồn tại ở mọi nhà nước,
không phân biệt chế độ chính trị. Khi còn nhà nước và quyền lực
chính trị thì tất yếu còn tham nhũng. Cho dù thể chế chính trị cũng không thể là lằn ranh ngăn cản sự xuất hiện của
tham nhũng hay quyết định tham nhũng nhiều hay ít. Tuy nhiên cũng phải nhận thấy
rằng, tham nhũng xuất hiện và tồn
tại được nhờ môi sinh từ chế độ tư
hữu. Trong khi đó, chế độ tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên nền
tảng của chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Do đó, từ trong bản chất của nó, chế độ chiếm hữu tư bản tư nhân về
tư liệu sản xuất là môi trường lý tưởng hơn hết để tham nhũng xuất
hiện và phát triển.
C. Mác trong tác
phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 hay
trong bộ Tư bản đã chỉ rõ: chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha hóa và ở
đó, giai cấp tư sản với “lòng tham vô đáy” công nhiên tư lợi, biến mọi
mối quan hệ giữa người với người trong xã hội tư bản thành một mối
quan hệ duy nhất là lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo múc”; đồng thời ở đó, nhà tư bản sẵn sàng chà đạp lên mọi thứ, thậm
chí không còn tội ác nào là nó không dám phạm.
Thực tiễn hiện nay, chính
trường và xã hội tư bản đang đầy rẫy những vụ, việc tham nhũng đình
đám, không khó để điểm mặt chỉ tên những vụ, việc này ở Mỹ, Anh,
Pháp, Đức..., dù chúng biến tướng ngày càng phức tạp, được chính
giới và tài phiệt tư bản cấu kết che đậy hết sức tinh vi. Tham nhũng là “khối u ác tính” không thể cắt
bỏ trong xã hội tư bản và nó đẩy các mâu thuẫn bản chất không thể
hóa giải trong xã hội tư bản lên càng cao, dù rằng nhà nước tư bản
có gắng gượng cải tổ đến đâu. Sự thực nhãn tiền đó khiến cho những
kẻ vẫn lu loa luận điệu rằng, chỉ ở chế độ chính trị một đảng mới
có tham nhũng, trở nên hết sức lố bịch! Càng lố bịch hơn khi họ lớn
tiếng ca ngợi sự mẫu mực của các nước tư bản trong chống tham nhũng
và cho rằng, chỉ nhà nước pháp quyền tư bản và cơ chế “tam quyền
phân lập” mới chống tham nhũng hiệu quả từ gốc hay thể chế dân chủ tư
sản đã là một cơ chế tự thân để phòng và chống tham nhũng. Và rằng, hoàn
toàn có thể tích hợp cơ chế “tam quyền phân lập” trong chế độ xã
hội chủ nghĩa (?!)...
Tại Hàn Quốc, đất nước tiêu biểu cho chế độ đa
đảng và “tam quyền phân lập”, tình trạng tham nhũng hiện nay vẫn diễn
ra hết sức nhức nhối. Theo Ủy ban Phòng, chống tham nhũng và Quyền công
dân Hàn Quốc (ACRC), trong vòng 10 năm (từ năm 2008 đến 2017), ACRC đã
tiếp nhận tới 32.306 tố cáo tham nhũng, chuyển cơ quan điều tra, thẩm
tra 1.615 vụ. Tháng 3-2017, bà Park Geun Hye trở thành Tổng thống dân
cử đầu tiên của Hàn Quốc bị phế truất vì cáo buộc tham nhũng 55,2
triệu USD liên quan tới các tập đoàn kinh tế hàng đầu của nước này,
như Samsung, Lotte... và đang phải thụ mức án 24 năm tù. Rõ ràng, cơ chế
“tam quyền phân lập” không phải là phương thuốc thần diệu kiểm soát quyền lực
và chống tham nhũng được triệt để!
Cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay đã trở
thành một trong những vấn đề toàn cầu. Sự tham khảo kinh nghiệm chống
tham nhũng giữa các quốc gia và xây dựng cơ chế phối hợp chống tham
nhũng ở tầm quốc tế là hết sức cần thiết, trên cơ sở sự vận dụng
sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện và thể chế chính trị
từng nước. Tuy nhiên, trong mỗi chế độ nhà nước khác nhau, thì tính
chất, mức độ và cách xử lý với tham nhũng cũng khác nhau, phụ thuộc
vào bản chất giai cấp, phương thức tổ chức và thực thi quyền lực
nhà nước, vào năng lực đạo đức của đội ngũ công chức của nhà nước
đó. Việc tham khảo, tiếp thu về kinh nghiệm chống tham nhũng không hề
đồng nghĩa phải bê nguyên xi hay áp dụng cả hệ thống chính trị của
quốc gia khác.
Rõ ràng, mớ xảo biện hổ lốn ngụy tuyên truyền
trên của các thế lực thù địch chẳng có gì khác ngoài chiêu trò lợi dụng
và mượn “con bài” chống tham nhũng để chuyển sang chống phá về tư tưởng
và chính trị!
Đảng ta lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa với hệ thống pháp luật ngày càng hoàn bị để
phòng, chống tham nhũng hiệu quả, với những bước đi chắc chắn, bài
bản và lâu dài. Chúng ta tiếp thu tinh hoa của văn minh nhân loại - các chế
định pháp lý được thừa nhận chung của cộng đồng quốc tế, như tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, tính
tối cao của pháp luật trong hoạt động của nhà nước và trong điều chỉnh các quan
hệ xã hội, sự kiểm soát quyền lực... Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước, chúng ta không chấp nhận “tam quyền phân lập” gắn với chế
độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trái lại, ở nước ta, quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự hài
hòa hóa nguyên tắc tập quyền và phân công, phân cấp, vừa tập trung quyền lực để
quyết định và thực thi quyền lực nhà nước nhanh chóng, thống nhất, vừa có sự
kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước ngày càng chặt chẽ hơn, hạn chế
sự lạm quyền và tha hóa quyền lực. Dùng kỷ luật đảng, sức mạnh của pháp chế xã
hội chủ nghĩa kết hợp với sự giám sát xã hội, phản biện xã hội và sức mạnh của
dư luận rộng rãi để đấu tranh chống tham nhũng.
Nhà nước ngày càng tiến hóa và văn minh hơn nên
cơ chế phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với tham nhũng ngày càng
hiệu quả hơn. Sự ra đời của nhà nước pháp quyền chính là thành quả
của văn minh hóa tổ chức và hoạt động của nhà nước, chống sự tha
hóa quyền lực nhà nước và là một phương thức quan trọng chống nạn
tham nhũng. Tuy vậy, nhà nước pháp quyền cũng có những thất bại của
nó, cho nên không thể ảo tưởng rằng chỉ xây dựng nhà nước pháp quyền
thì tự nhiên tham nhũng bị đẩy lùi hay xóa bỏ.
Đương nhiên, tham nhũng không phải là một hiện tượng
tất yếu, mang tính vĩnh cửu, tồn tại và phát triển cùng với xã hội loài người.
Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại ở một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội. C.
Mác cho rằng, đích cuối của lịch sử nhân loại là chủ nghĩa cộng sản, cùng với
sự thiết lập xã hội không giai cấp, nhà nước “tự tiêu vong”, theo đó là sự tiêu
vong của tham nhũng. Đó là lý tưởng cao đẹp chủ nghĩa cộng sản hướng đến. Tuy
nhiên, thực tiễn xây dựng xã hội mới theo lý tưởng cộng sản, phải trải qua
những bước quá độ, nhất là trong điều kiện phải sử dụng một số yếu tố tư bản
chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, nên tất yếu khiến
cho quá trình khắc phục hiện tượng tham nhũng còn là một cuộc đấu tranh hết sức
lâu dài, cam go, phức tạp.
Hai là, các thế lực
thù địch xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông xã hội rằng, cuộc chiến
chống tham nhũng ở Việt Nam thực chất chỉ là cuộc thanh trừng, đấu đá nội bộ
giữa các phe nhóm tranh giành lợi ích, là chính “ta đánh ta”. Chúng vu cáo Đảng
ta chống tham nhũng vượt trên pháp luật; kích động sự trừng phạt, trừng trị,
chúng cố tình lấp liếm đi tính nhân văn trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật đảng.
Cũng phải thấy rằng, chống tham nhũng là công việc được Đảng ta coi trọng và thực hiện
thường xuyên, nhất là từ khi Đảng trở thành đảng cầm quyền. Trong điều kiện
một đảng cầm quyền, không có đảng đối lập, không có nghĩa Đảng có thể tự
bằng lòng, chủ quan, duy ý chí, chuyên quyền, độc đoán, không có khả năng nhận
ra và sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm của mình... Ngược lại, chiến thắng
chính bản thân mình bao giờ cũng là cuộc chiến khó khăn nhất! Và, một đảng
“ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày
mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu
sa vào chủ nghĩa cá nhân”[1],
nên Đảng ta thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn chính mình, đặc biệt
tránh tha hóa về quyền lực bởi quan liêu, tham nhũng - một trong bốn nguy cơ ảnh
hưởng tới sự tồn vong của chế độ. Nếu dung túng những cán bộ, đảng viên,
dù là cán bộ cấp cao, nhưng suy thoái về đạo đức, biến chất, tham ô, tham nhũng
thì sẽ làm Đảng suy yếu từ bên trong, làm xói mòn lòng tin của nhân dân. Năm
1950, khi chuẩn y tử hình Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, do biển
thủ, ăn chặn của công, dù hết sức đau xót, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
“Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan, nguy
hiểm”. Do đó, Đảng ta chống tham nhũng là để thanh lọc, sàng lọc cán bộ, làm
trong sạch bộ máy, góp phần giữ sự xác tín chính trị, tính chính
đáng và xứng đáng với vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của mình, tuyệt
nhiên không phải là “thanh trừng nội bộ”, càng không phải là “cuộc đấu đá phe
phái”, như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Mặt khác, Đảng ta là một khối thống nhất ý chí và hành
động. Hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất thống nhất không có đối trọng,
đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng - đại biểu trung thành cho ý chí và lợi
ích thống nhất của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Đảng lãnh đạo Nhà nước
để bảo đảm nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Mọi quyết sách của Đảng, trong đó có việc chống tham
nhũng, đều vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Càng tuyệt nhiên không có các
“phe nhóm” hay “phe phái” bên trong, bên ngoài Đảng hay trong hệ thống chính
trị của ta, có lợi ích khác đối trọng, kìm hãm, phong tỏa hay cạnh tranh lẫn
nhau, làm xé lẻ hay phân rã quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, từ đó loại
trừ hoàn toàn nguy cơ xung đột cấu trúc (structural conflict) cố hữu như ở các
nước tư bản. Do đó, luận điệu cho rằng, tham nhũng là “chất xúc tác” làm xung
đột giữa các phe phái, làm đảo lộn trật tự quyền lực và chống tham nhũng chỉ vì
lợi ích của riêng Đảng, chặn xu hướng ly khai khỏi quyền lực hệ thống, quyền
lực trung tâm của Đảng, là hoàn toàn phi lý và vô căn cứ, chỉ là sản phẩm của
“trí tưởng tượng phong phú” của những kẻ mang thâm thù với chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Đồng thời, mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát
hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh, công bằng, khách quan theo tinh
thần thượng tôn pháp luật. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm hơn pháp luật, nhưng kỷ
luật của Đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể và các hình
thức xử lý của pháp luật. Quan điểm lấy kỷ luật đảng thay pháp luật là sự sai
lệch và làm tổn thương uy tín của Đảng. “Bất cứ ai cũng không có quyền lực
tuyệt đối ngoài pháp luật, bất kỳ ai sử dụng quyền lực đều phải phục vụ nhân
dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân và tự giác chịu sự giám sát của nhân dân”,
như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh tại Hội nghị toàn quốc về công tác
phòng, chống tham nhũng được tổ chức vào ngày 25-6-2018. Do đó, không thể có
các quy định chống tham nhũng của Đảng đứng trên pháp luật, “có sự can thiệp
chính trị”, “xử ép” hay “vi phạm nhân quyền”, “vi hiến” và càng không thể mượn
cớ chống tham nhũng để xảo biện phải có cái gọi là “luật về đảng”(?!), vì mọi
hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên và vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối
với Nhà nước và xã hội đều đã được quy định tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam - đạo luật gốc có hiệu lực pháp lý tối cao.
Ở góc độ khác, công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện
tiêu cực, tham nhũng là “thanh bảo kiếm” giữ nghiêm kỷ luật đảng, vừa thể
hiện tính nghiêm minh và tự giác cao độ, vừa thể hiện tính dân chủ,
nhân đạo sâu sắc. Nó không phải chỉ cốt “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm
vết”, truy tìm bằng được khuyết điểm, sai lầm để xử phạt, trừng trị,
mà là “trị bệnh cứu người”, lấy xây dựng và cải tạo để chủ động phòng
ngừa, cảnh tỉnh, răn đe, ngăn chặn, uốn nắn, giáo dục, sửa chữa, khơi
dậy sự tự giác là chính. “Thà chặt một cành sâu để cho cây xanh tốt”, như
lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, xử lý một người để cứu muôn người, nên công tác kiểm
tra, giám sát và kỷ luật của Đảng ta thể hiện bản chất nhân văn cao độ.
Ba là, các thế lực thù
địch tung thông tin trên không gian mạng hòng lung lạc niềm tin của cán bộ,
đảng viên và nhân dân vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng ta,
với những rêu rao rằng, chống tham nhũng ở nước ta như “con thuyền không bến”,
là “cuộc chiến nửa vời”, vẫn còn “nhiều vùng cấm”; và rằng, càng kỷ luật, xử lý
nhiều cán bộ tham nhũng thì càng làm nhụt đi ý chí của đội ngũ cán bộ, đảng
viên, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thủ đoạn này nhằm cố tình bôi đen, phủ nhận những kết
quả hết sức tích cực, mang tính bước ngoặt từ công cuộc phòng, chống tham nhũng
của Đảng ta vừa qua, reo rắc tâm trạng hoài nghi, bi quan, nhất là sự thiếu tin
tưởng trong dư luận xã hội, âm mưu chặt đứt cơ sở quan trọng bậc nhất để cuộc
đấu tranh chống tham nhũng thành công, đó là niềm tin, sự ủng hộ và cùng vào cuộc
của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Người xưa có nói: “Giặc ngoài dễ chống, giặc trong khó
phòng”. Chống tham nhũng là công việc khó khăn muôn phần vì đụng chạm tới lợi
ích, đến quyền lực, có sự câu kết, tiếp tay, che đậy hết sức tinh vi, phức tạp.
Phải thẳng thắn nhìn nhận, có những giai đoạn, chúng ta chống tham nhũng chưa
như mong muốn, hiệu quả còn thấp. Nhưng, với quyết tâm chính trị cao, chưa khi
nào, công cuộc phòng, chống tham nhũng ở nước ta được thực hiện ráo riết, quyết
liệt như hiện nay. Chống tham nhũng không có “vùng cấm”, không có đặc quyền,
không có ngoại lệ, bất luận là ai, kể cả những người bao che, dung túng, tiếp
tay cho tham nhũng hay can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng. Chúng ta tiến
hành chống tham nhũng toàn diện, gắn liền với tăng cường chỉnh đốn Đảng, đẩy
mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán và đã xử lý nhiều cán bộ
cao cấp, tổ chức đảng vi phạm, trong đó có cả các đồng chí là Ủy viên Trung
ương Đảng; kỷ luật cả cán bộ đương chức và đã nghỉ hưu, cả trong lực lượng vũ
trang; làm nghiêm từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài... Lần đầu trong lịch
sử tố tụng Việt Nam, một người từng là Ủy viên Bộ Chính trị đã bị cơ quan tiến
hành tố tụng truy tố và đưa ra xét xử về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước
về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là việc chưa từng có trước
đây. Sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, cấp ủy, ủy ban
kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 35.000 đảng viên vi phạm, trong đó có gần
1.300 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái; số vụ án lớn
được đưa ra xử lý, số cán bộ trung, cao cấp bị xử lý trong 2 năm vừa qua nhiều
gấp 3 lần trong 20 năm trước đó; số tiền thu lại được trong 2 năm qua nhiều gấp
40 lần trong 20 năm trước đó. Đây là những con số, minh chứng cho thấy Đảng ta
“quyết tâm làm đến cùng”[2]
trong cuộc chiến chống tham nhũng, đập tan những luận điệu xuyên tạc rằng ta
làm “nửa vời” hay “vẫn còn vùng cấm”.
Chống tham nhũng cũng không hề làm thối chí hay rã đám
tinh thần như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Ngược lại, cuộc đấu
tranh chống “giặc nội xâm” đang được Đảng ta đẩy mạnh, vì lương tâm và trách
nhiệm trước vận mệnh dân tộc, vì lợi ích của nhân dân, vì sự trong sạch và
thanh danh của Đảng, đang thực sự truyền cảm hứng mạnh mẽ và làm nức lòng cán
bộ, đảng viên, nhân dân. Khi những tiêu cực bị đẩy lùi, chính nghĩa và sự thanh
liêm được bảo vệ, sẽ thực sự dấy lên niềm tin và khí thế mới trong cả hệ thống
chính trị, chuyển biến thành những kết quả tích cực trong công tác xây dựng
Đảng và những tín hiệu tích cực của nền kinh tế đất nước. GDP 6 tháng đầu năm
2018 tăng 7,08%, cao nhất từ 7 năm qua... Chống tham nhũng đang thực sự là một
động lực mới cho sự phát triển của đất nước.
Rõ ràng, cam kết danh dự và quyết tâm chính trị mạnh
mẽ của Đảng ta, cùng những kết quả phòng, chống tham nhũng quan trọng đạt được
trong thực tiễn tự nó là những minh chứng sống động và đầy sức thuyết phục đanh
thép bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, ngụy tuyên truyền của các thế lực thù
địch về phòng, chống tham nhũng trên các phương tiện truyền thông xã hội./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét